Giữa tháng chạp, bà Thao Thị Cho, 56 tuổi, ở xã Pù Nhi, huyện Mường Lát, cùng con gái đeo gùi vào vạt rừng tìm cây giang. Trong khoảng một tuần, bà Cho sẽ nghỉ hầu hết việc nương rẫy để đốn cây, làm giấy bản chuẩn bị đón năm mới.
"Đây là công việc linh thiêng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Mông. Bất kể gia đình nào trong bản đều phải có giấy dùng ngày Tết và dịp lễ quan trọng trong năm...", bà Cho nói.
Dịp cuối năm, bà Cho và phụ nữ Mông có gia đình ở huyện biên giới Mường Lát, Quan Sơn phải thức khuya dậy sớm làm giấy bản. Họ không biết tục lệ này xuất phát từ đâu và từ bao giờ, chỉ biết được truyền từ đời này sang đời khác.
Giấy do người Mông làm thủ công có nhiều tên gọi tùy theo từng vùng. Đồng bào Mông ở miền tây Thanh Hóa gọi là giấy bản. Bà Cho bảo, làm giấy bản không có công thức chung, nhưng để đẹp thì mỗi gia đình sẽ giữ bí kíp riêng. Dù có khác nhau đôi chút, nguyên liệu chính đều được lấy từ thân cây giang hoặc các loại cây họ tre luồng mọc rải rác trên sườn đồi. Ngoài ra, một thành phần không thể thiếu để tạo chất kết dính là vỏ của các loài cây chứa nhớt.
Làm giấy bản đòi hỏi sự khéo léo và cả những công đoạn khá nặng nhọc song đàn ông không tham gia. Bà Cho lấy chồng gần 40 năm trước và cũng ngần ấy năm làm giấy cho gia đình. Bà được mẹ truyền nghề làm giấy khi còn là thiếu nữ.
Sau chừng một giờ đi bộ băng qua mấy con suối, bà Cho cũng tìm được một bụi giang ưng ý. Bà bắt đầu đốn hạ những cây đang thì bánh tẻ, lóng đẹp, không bị sâu. "Cần chặt bỏ mắt, chỉ lấy phần lóng dài cỡ hai gang tay người lớn...", người phụ nữ lý giải.
Mất hơn nửa buổi, mẹ con bà Cho mới gom đầy hai gùi ống giang nặng chừng 40 kg. Gần trưa, họ nhọc nhằn về bản. Ăn vội nắm xôi đồ từ nếp nương, nhóm phụ nữ Mông lại tất tả quay vào rừng để lấy cho đủ số cây định dùng. Phải hai ba chuyến ra vào rừng như vậy, bà Cho mới hoàn thành việc tìm nguyên liệu.
Lấy giang xong, họ tiếp tục tìm các loại cây rừng chứa nhiều nhớt, lấy phần vỏ đủ cho tỷ lệ 70% cây giang hoặc vầu và 30% vỏ cây có nhớt.
Buổi chiều, bà Cho cùng những phụ nữ trong nhà xúm lại dùng dao tước cẩn thận để loại bỏ phần cật (vỏ) màu xanh bên ngoài, chẻ ra thành từng thanh nhỏ như chiếc đũa rồi rửa sạch. Bước tiếp theo, họ xếp lần lượt vào chiếc chảo lớn để nấu cùng với các loại vỏ cây. Thường thì thời gian đun nấu mất 12-15 tiếng, đến khi nào thanh giang nứt nhừ thì dập lửa.
Nguyên liệu sau đó được vớt ra, đem ngâm 2-3 ngày rồi giã nhuyễn. Họ dùng vải màn lọc thật kỹ để loại bỏ phần bã và cho ra thứ hỗn hợp làm giấy. "Từ nhỏ tôi đã thấy mẹ mình làm giấy mỗi dịp gần Tết Nguyên đán", bà Cho nói, cho hay quá trình làm giấy nghe đơn giản nhưng khi làm thì mới thấy cầu kỳ, vất vả.
Việc chọn nguyên liệu quyết định đến 80% chất lượng giấy bản. Giang, nứa hoặc vầu phải tìm được những cây óng xanh, không bị sâu. Khi nấu cùng với vỏ cây có nhớt cũng cần để ý canh chừng không để nước cạn, nếu bị cháy khét thì coi như bỏ đi cả mẻ. Lúc giã và lọc để lấy hỗn hợp làm giấy phải thật đều tay, nếu lọc sơ sài thì chất lượng giấy không mịn, còn lọc kỹ quá thì độ kết dính sẽ giảm, ảnh hưởng đến độ bền của giấy.
Khâu cuối cùng của việc làm giấy bản là rải đều hỗn hợp lên khuôn, để ráo rồi đem phơi. "Công đoạn này phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Nếu gia đình nào làm đúng hôm trời khô ráo, phơi được nắng giấy sẽ trắng mịn, không bị xỉn màu. Nếu gặp trời mưa hoặc bữa nồm ẩm, giấy sẽ không đạt yêu cầu", chị Va Cá Dua ở bản Pù Toong, xã Pù Nhi, tiết lộ.
Tấm giấy của người Mông thường có kích thước 1,2 m x 1,5 m, mỗi gia đình dịp cuối năm sẽ làm 3-5 tấm. Giấy bản ngoài được sử dụng làm xử ca (bàn thờ) mới vào ngày 30 Tết còn được dùng trong nhiều nghi lễ quan trọng như cúng tế, đám ma, đám cưới... Nó như một vật tế có ý nghĩa gắn kết giữa người sống và tổ tiên. Xử ca của người Mông đơn giản chỉ là một tấm giấy dài khoảng 30 cm, rộng hơn 20 cm, được treo trên tường nhà đối diện hướng từ cửa chính đi vào.
Ông Lầu Văn Ly, chuyên viên Phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch huyện Mường Lát, là người Mông ở xã Pù Nhi nên rất am hiểu về phong tục làm giấy của ông cha. Quan niệm thay giấy bàn thờ gia tiên mỗi năm hết Tết đến là nghi lễ thể hiện lòng kính trọng, nhớ về tổ tiên, cội nguồn của đồng bào Mông.
Theo ông Ly, tục làm giấy bản của đồng bào Mông có từ lâu đời. Các cô gái khi lớn lên, trước khi về nhà chồng, ngoài may vá thêu thùa còn phải biết làm giấy bản. Họ sẽ được người mẹ chỉ dạy cách làm.
Người Mông ở Mường Lát, Quan Sơn quan niệm chỉ có giấy bản do phụ nữ làm ra từ các loại cây rừng mới linh thiêng và được sử dụng vào những việc hệ trọng của mỗi gia đình. Thị trường ngày nay có rất nhiều loại giấy nhưng không thứ nào có thể thay thế được giấy bản thủ công. "Năm mới đến, dù là gia đình giàu có hay khó khăn đều phải có giấy bản mới để thay xử ca...", ông Ly nói.