Hiện nay đã có các nghiên cứu báo cáo rằng virus gây COVID-19 có thể được lây lan thông qua đường thông gió chung của một tòa chung cư. Vậy trong trường hợp ở một căn hộ nhất định của chung cư này, thì kiểu thiết kế thông gió trong đó có làm lây lan bệnh cho những người sống cùng khi có bệnh nhân F0 tự điều trị hay không?
Một nghiên cứu đã khảo sát sự lây lan của các giọt bắn phát ra bởi các hoạt động khác nhau của F0 như ho, hắt hơi, nói chuyện bình thường và nói to chịu ảnh hưởng như thế nào bởi thiết kế thông gió của căn hộ. Hai kiểu thông gió (đầu vào/đầu ra ở trần nhà/tường – kiểu 1 và trần nhà/trần nhà – kiểu 2) đã được sử dụng để khảo sát. Hai mô hình người được đặt trong phòng mô phỏng lần lượt F0 và người tiếp xúc, cách nhau 2 m theo khoảng cách an toàn được khuyến cáo. Kết quả cho thấy đối với kiểu thông gió 1, các giọt bắn từ F0 chỉ lây lan từ việc ho hay nói to. Còn ở kiểu thông gió 2 thì tất cả các hoạt động hô hấp của F0 đều gây nhiễm cho người tiếp xúc. Hiện tượng ở kiểu 1 được giải thích rằng có một “bức rèm không khí” được tạo ra ngăn cản các giọt bắn từ F0 lan đến người đối diện. Do đó, chỉ có các giọt bắn mạnh do nói to và do tiếng ho mới đến được người tiếp xúc với F0.
Đối với kiểu thông gió 1 thì khi ho, các giọt bắn có lực bắn mạnh vẫn không thể đến được người đối diện trong cả 220 giây (Hình 1A-C). Ngược lại với kiểu 2, ngay cả các giọt bắn dù có lực bắn yếu nhưng do điều kiện thông gió nên đã nhanh chóng lan ra đến người tiếp xúc ở 50 và 220 giây (Hình 1D-F).
Ngoài ra, khi tăng việc đổi mới không khí mỗi giờ thì chỉ ở kiểu thông gió 1, khả năng lây lan của giọt bắn mới giảm đi. Điều này cho thấy việc thiết kế kiểu thông gió cũng hỗ trợ cho hiệu quả loại bỏ các tác nhân gây nhiễm khi tăng việc đổi mới không khí trong phòng.
Hình 1. Sự lây lan của giọt bắn khi ho đối với kiểu thông gió 1 (A – C) và kiểu thông gió 2 (D – F) ở 10, 50, và 200 giây tương ứng. Video cho kiểu thông gió 1 (trên) và kiểu thông gió 2 (dưới) .
Từ các kết quả của nghiên cứu, có thể thấy rằng khi bệnh nhân F0 nói chuyện bình thường vẫn có thể làm lây bệnh dù đã giữ khoảng cách an toàn 2 m nếu thiết kế thông gió không phù hợp. Các giọt bắn vẫn tồn tại ngay cả sau 30 phút nói chuyện cho thấy những bệnh nhân F0 không triệu chứng (ho, hắt hơi) vẫn có nguy cơ cao lây truyền virus trong môi trường kín. Do đó, việc thiết kế mô hình lưu thông không khí trần nhà-tường để tạo ra “bức rèm không khí” là một chiến lược khả thi trong phòng ngừa và giảm thiểu việc lây lan bệnh khi F0 điều trị tại nhà. Ngoài ra, hậu đại dịch khi thế giới dần trở lại bình thường, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng không gian văn phòng, cao ốc được thiết kế thông gió phù hợp để giảm thiểu sự lây lan của các bệnh dịch tương tự COVID-19.
PGS.TS. Trần Văn Hiếu, Mai Hoàng Thuỳ Dung
Nhóm nghiên cứu Y sinh học GMIF, Trường ĐH. KHTN TPHCM.
Lược dịch từ
Mariam, Magar, A., Joshi, M., Rajagopal, P. S., Khan, A., Rao, M. M., & Sapra, B. K. (2021). CFD Simulation of the Airborne Transmission of COVID-19 Vectors Emitted during Respiratory Mechanisms: Revisiting the Concept of Safe Distance. ACS Omega.
Một nghiên cứu đã khảo sát sự lây lan của các giọt bắn phát ra bởi các hoạt động khác nhau của F0 như ho, hắt hơi, nói chuyện bình thường và nói to chịu ảnh hưởng như thế nào bởi thiết kế thông gió của căn hộ. Hai kiểu thông gió (đầu vào/đầu ra ở trần nhà/tường – kiểu 1 và trần nhà/trần nhà – kiểu 2) đã được sử dụng để khảo sát. Hai mô hình người được đặt trong phòng mô phỏng lần lượt F0 và người tiếp xúc, cách nhau 2 m theo khoảng cách an toàn được khuyến cáo. Kết quả cho thấy đối với kiểu thông gió 1, các giọt bắn từ F0 chỉ lây lan từ việc ho hay nói to. Còn ở kiểu thông gió 2 thì tất cả các hoạt động hô hấp của F0 đều gây nhiễm cho người tiếp xúc. Hiện tượng ở kiểu 1 được giải thích rằng có một “bức rèm không khí” được tạo ra ngăn cản các giọt bắn từ F0 lan đến người đối diện. Do đó, chỉ có các giọt bắn mạnh do nói to và do tiếng ho mới đến được người tiếp xúc với F0.
Đối với kiểu thông gió 1 thì khi ho, các giọt bắn có lực bắn mạnh vẫn không thể đến được người đối diện trong cả 220 giây (Hình 1A-C). Ngược lại với kiểu 2, ngay cả các giọt bắn dù có lực bắn yếu nhưng do điều kiện thông gió nên đã nhanh chóng lan ra đến người tiếp xúc ở 50 và 220 giây (Hình 1D-F).
Ngoài ra, khi tăng việc đổi mới không khí mỗi giờ thì chỉ ở kiểu thông gió 1, khả năng lây lan của giọt bắn mới giảm đi. Điều này cho thấy việc thiết kế kiểu thông gió cũng hỗ trợ cho hiệu quả loại bỏ các tác nhân gây nhiễm khi tăng việc đổi mới không khí trong phòng.
Hình 1. Sự lây lan của giọt bắn khi ho đối với kiểu thông gió 1 (A – C) và kiểu thông gió 2 (D – F) ở 10, 50, và 200 giây tương ứng. Video cho kiểu thông gió 1 (trên) và kiểu thông gió 2 (dưới) .
Từ các kết quả của nghiên cứu, có thể thấy rằng khi bệnh nhân F0 nói chuyện bình thường vẫn có thể làm lây bệnh dù đã giữ khoảng cách an toàn 2 m nếu thiết kế thông gió không phù hợp. Các giọt bắn vẫn tồn tại ngay cả sau 30 phút nói chuyện cho thấy những bệnh nhân F0 không triệu chứng (ho, hắt hơi) vẫn có nguy cơ cao lây truyền virus trong môi trường kín. Do đó, việc thiết kế mô hình lưu thông không khí trần nhà-tường để tạo ra “bức rèm không khí” là một chiến lược khả thi trong phòng ngừa và giảm thiểu việc lây lan bệnh khi F0 điều trị tại nhà. Ngoài ra, hậu đại dịch khi thế giới dần trở lại bình thường, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng không gian văn phòng, cao ốc được thiết kế thông gió phù hợp để giảm thiểu sự lây lan của các bệnh dịch tương tự COVID-19.
PGS.TS. Trần Văn Hiếu, Mai Hoàng Thuỳ Dung
Nhóm nghiên cứu Y sinh học GMIF, Trường ĐH. KHTN TPHCM.
Lược dịch từ
Mariam, Magar, A., Joshi, M., Rajagopal, P. S., Khan, A., Rao, M. M., & Sapra, B. K. (2021). CFD Simulation of the Airborne Transmission of COVID-19 Vectors Emitted during Respiratory Mechanisms: Revisiting the Concept of Safe Distance. ACS Omega.