Các cụ ngày xưa có câu: “Một nghề thì sống, đống nghề thì chết”, nghĩa là tập trung chuyên môn, thành thạo và giỏi một nghề thì sẽ thành công còn nghề gì cũng biết nhưng chỉ hời hợt, qua loa thì sẽ đổ vỡ, không thành. Tuy nhiên, trong thời buổi hiện tại, khi nhiều công việc đòi hỏi chúng ta nắm được đa dạng các kĩ năng để nắm bắt nhịp thay đổi của môi trường công việc, xã hội, đặc biệt là khi công nghệ luôn tiếp biến, tân tiến như bây giờ, việc chỉ giỏi một nghề liệu có giúp chúng ta có đủ tự tin để đáp ứng nhu cầu của thị trường việc làm hay không? Hãy cùng bàn luận một chút nhé!
Trong cuốn sách Range: Why Generalists Triumph in a Specialized World (tạm dịch: Phạm vi: Tại sao những người theo chủ nghĩa tổng quát lại chiến thắng trong một thế giới được chuyên môn hóa?), nhà báo David Epstein đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể dựa trên nghiên cứu của các nhà khoa học. Thử nhìn vào ví dụ của hai ngôi sao trong làng thể thao là vận động viên golf chuyên nghiệp người Mỹ Tiger Woods và vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Thụy Sĩ Roger Federer và cách mà họ với tới thành công. Cha của Tiger Woods đã cho anh một chiếc gậy đánh bóng khi anh mới chỉ sáu tháng tuổi. Anh kéo nó đi khắp nơi cùng chiếc xe tập đi của mình và khi được 10 tháng tuổi, cậu bé đã tập bắt chước một cú xoay người. Tới năm 3 tuổi, cha anh bắt đầu huấn luyện Woods và khi 21 tuổi, anh đã là người chơi golf giỏi nhất thế giới. Anh đặc biệt tập trung vào việc chơi golf và dành một lượng lớn thời gian để luyện tập có chủ đích, giống như việc đào tạo kĩ thuật.
Mặt khác, Roger Federer đã chơi hàng chục môn thể thao khác nhau, từ trượt tuyết, trượt ván, bóng bầu dục, cầu lông, bóng rổ, bóng đá,… Anh chưa vội tập trung vào chuyên môn. Mẹ của Federer là một huấn luyện viên tennis và chưa muốn huấn luyện anh vì anh không thể trả bóng về theo cách thông thường. Nhiều năm sau đó, anh tiếp tục chơi đa dạng các môn thể thao khi bạn bè đồng trang lứa chỉ tập trung chơi quần vợt và rõ ràng là Federer vẫn thành công. Vậy thế nào mới là quy chuẩn?
Đó chính là mô hình của Federer. Các nhà khoa học về thể thao trên khắp thế giới đã theo dõi sự phát triển của các vận động viên và nhận thấy họ có một khoảng thời gian là “lấy mẫu”. Lúc này, họ gặt hái những kĩ năng phổ quát nhằm phục vụ cho việc học sau này. Họ tìm hiểu về sở thích và khả năng của mình.
Trong nhiều môi trường khi các mô hình không lặp lại, bạn phải làm mọi việc nhanh chóng, kịp thời và giải quyết các vấn đề bạn chưa từng gặp phải. Bạn phải có những kĩ năng và kiến thức để ứng dụng vào những tình huống chưa có tiền lệ này - các nhà tâm lý học gọi là sự chuyển giao. Bất kể bạn là một đứa trẻ đang học toán, thể thao hay một nhà khoa học đang nghiên cứu một vấn đề bất thường, điều bạn cần là chuyển giao kiến thức. Việc đào tạo của bạn càng đa dạng, bạn càng có thể áp dụng các kĩ năng của mình một cách linh hoạt vào các tình huống bạn chưa gặp. Điều này đồng nghĩa với việc bạn học cách kết hợp chiến lược để giải quyết vấn đề thay vì chỉ học cách thực hiện các kiểu mẫu lặp đi lặp lại.
Cùng nhìn vào một ví dụ khác trong giáo dục. Hãy so sánh về tầm quan trọng của thời điểm chuyên môn hóa, liệu trẻ em có đang phải đưa ra lựa chọn quá sớm khi chúng đang ở tuổi vị thành niên hay chúng có thể thử nhiều thứ trước khi cần quyết định? Hãy nhìn các quốc gia có hệ thống giáo dục tương đồng, như Anh và Scotland, ngoại trừ thời gian chuyên môn hóa. Ở Anh, học sinh ở độ tuổi 15, 16 phải lựa chọn những gì các em sẽ học vì các em sẽ phải làm bài kiểm tra vào các chương trình trọng tâm cụ thể ở đại học, ngược lại so với Scotland. Ở Scotland, học sinh được trải nghiệm trong hai năm đầu tiên, các em có thể tiếp tục học các khóa học khác nhau - đây là khoảng thời gian lấy mẫu. Vậy kết quả như thế nào?
Những người sớm bước vào chuyên môn hóa dẫn dầu về thu nhập nhưng họ lại đưa ra những lựa chọn ít phù hợp hơn cho bản thân. Họ có xu hướng chọn những gì họ đã biết bởi vì họ đâu thể làm gì khác? Họ chọn một thứ họ đã biết khi mới 16 tuổi. Những người lựa chọn chuyên môn muộn hơn đuổi kịp và vượt qua họ trong sáu năm. Số lượng ở những người bước vào sớm bắt đầu từ bỏ sự nghiệp là cao hơn bởi vì họ không thể tối ưu hóa những chất lượng được yêu cầu.
Trong văn hóa các doanh nghiệp, có vẻ như chúng ta đang đánh giá thấp sự cần thiết của những tổng quát viên. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không cần những chuyên gia. Nhưng như nhà vật lý và toán học lỗi lạc Freeman Dyson từng nói, chúng ta cần cả ếch và chim. Những con ếch trong bùn để xem xét các chi tiết nhỏ của tất cả mọi thứ. Những con chim ở trên cao và không nhìn thấy những chi tiết đó nhưng chúng có thể nhìn thấy nhiều con ếch và tích hợp công việc. Vấn đề của chúng ta là đều muốn mọi người trở thành chú ếch mà không yêu cầu ai làm chim cả. Điều này làm mất đi sự linh hoạt.
Chuyển đổi không phải là dễ dàng nhưng bạn có thể tận dụng những gì mình đã học được trong một lĩnh vực và đem nó sang một lĩnh vực khác. Hãy chú ý tới sự đa dạng và không nên định nghĩa công việc trong phạm vi hẹp, trau dồi nhiều kĩ năng để thích ứng và biến đổi phù hợp.
Tham khảo Greater Good Berkeley
Trong cuốn sách Range: Why Generalists Triumph in a Specialized World (tạm dịch: Phạm vi: Tại sao những người theo chủ nghĩa tổng quát lại chiến thắng trong một thế giới được chuyên môn hóa?), nhà báo David Epstein đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể dựa trên nghiên cứu của các nhà khoa học. Thử nhìn vào ví dụ của hai ngôi sao trong làng thể thao là vận động viên golf chuyên nghiệp người Mỹ Tiger Woods và vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Thụy Sĩ Roger Federer và cách mà họ với tới thành công. Cha của Tiger Woods đã cho anh một chiếc gậy đánh bóng khi anh mới chỉ sáu tháng tuổi. Anh kéo nó đi khắp nơi cùng chiếc xe tập đi của mình và khi được 10 tháng tuổi, cậu bé đã tập bắt chước một cú xoay người. Tới năm 3 tuổi, cha anh bắt đầu huấn luyện Woods và khi 21 tuổi, anh đã là người chơi golf giỏi nhất thế giới. Anh đặc biệt tập trung vào việc chơi golf và dành một lượng lớn thời gian để luyện tập có chủ đích, giống như việc đào tạo kĩ thuật.
Mặt khác, Roger Federer đã chơi hàng chục môn thể thao khác nhau, từ trượt tuyết, trượt ván, bóng bầu dục, cầu lông, bóng rổ, bóng đá,… Anh chưa vội tập trung vào chuyên môn. Mẹ của Federer là một huấn luyện viên tennis và chưa muốn huấn luyện anh vì anh không thể trả bóng về theo cách thông thường. Nhiều năm sau đó, anh tiếp tục chơi đa dạng các môn thể thao khi bạn bè đồng trang lứa chỉ tập trung chơi quần vợt và rõ ràng là Federer vẫn thành công. Vậy thế nào mới là quy chuẩn?
Đó chính là mô hình của Federer. Các nhà khoa học về thể thao trên khắp thế giới đã theo dõi sự phát triển của các vận động viên và nhận thấy họ có một khoảng thời gian là “lấy mẫu”. Lúc này, họ gặt hái những kĩ năng phổ quát nhằm phục vụ cho việc học sau này. Họ tìm hiểu về sở thích và khả năng của mình.
Trong nhiều môi trường khi các mô hình không lặp lại, bạn phải làm mọi việc nhanh chóng, kịp thời và giải quyết các vấn đề bạn chưa từng gặp phải. Bạn phải có những kĩ năng và kiến thức để ứng dụng vào những tình huống chưa có tiền lệ này - các nhà tâm lý học gọi là sự chuyển giao. Bất kể bạn là một đứa trẻ đang học toán, thể thao hay một nhà khoa học đang nghiên cứu một vấn đề bất thường, điều bạn cần là chuyển giao kiến thức. Việc đào tạo của bạn càng đa dạng, bạn càng có thể áp dụng các kĩ năng của mình một cách linh hoạt vào các tình huống bạn chưa gặp. Điều này đồng nghĩa với việc bạn học cách kết hợp chiến lược để giải quyết vấn đề thay vì chỉ học cách thực hiện các kiểu mẫu lặp đi lặp lại.
Cùng nhìn vào một ví dụ khác trong giáo dục. Hãy so sánh về tầm quan trọng của thời điểm chuyên môn hóa, liệu trẻ em có đang phải đưa ra lựa chọn quá sớm khi chúng đang ở tuổi vị thành niên hay chúng có thể thử nhiều thứ trước khi cần quyết định? Hãy nhìn các quốc gia có hệ thống giáo dục tương đồng, như Anh và Scotland, ngoại trừ thời gian chuyên môn hóa. Ở Anh, học sinh ở độ tuổi 15, 16 phải lựa chọn những gì các em sẽ học vì các em sẽ phải làm bài kiểm tra vào các chương trình trọng tâm cụ thể ở đại học, ngược lại so với Scotland. Ở Scotland, học sinh được trải nghiệm trong hai năm đầu tiên, các em có thể tiếp tục học các khóa học khác nhau - đây là khoảng thời gian lấy mẫu. Vậy kết quả như thế nào?
Những người sớm bước vào chuyên môn hóa dẫn dầu về thu nhập nhưng họ lại đưa ra những lựa chọn ít phù hợp hơn cho bản thân. Họ có xu hướng chọn những gì họ đã biết bởi vì họ đâu thể làm gì khác? Họ chọn một thứ họ đã biết khi mới 16 tuổi. Những người lựa chọn chuyên môn muộn hơn đuổi kịp và vượt qua họ trong sáu năm. Số lượng ở những người bước vào sớm bắt đầu từ bỏ sự nghiệp là cao hơn bởi vì họ không thể tối ưu hóa những chất lượng được yêu cầu.
Trong văn hóa các doanh nghiệp, có vẻ như chúng ta đang đánh giá thấp sự cần thiết của những tổng quát viên. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không cần những chuyên gia. Nhưng như nhà vật lý và toán học lỗi lạc Freeman Dyson từng nói, chúng ta cần cả ếch và chim. Những con ếch trong bùn để xem xét các chi tiết nhỏ của tất cả mọi thứ. Những con chim ở trên cao và không nhìn thấy những chi tiết đó nhưng chúng có thể nhìn thấy nhiều con ếch và tích hợp công việc. Vấn đề của chúng ta là đều muốn mọi người trở thành chú ếch mà không yêu cầu ai làm chim cả. Điều này làm mất đi sự linh hoạt.
Chuyển đổi không phải là dễ dàng nhưng bạn có thể tận dụng những gì mình đã học được trong một lĩnh vực và đem nó sang một lĩnh vực khác. Hãy chú ý tới sự đa dạng và không nên định nghĩa công việc trong phạm vi hẹp, trau dồi nhiều kĩ năng để thích ứng và biến đổi phù hợp.
Tham khảo Greater Good Berkeley