Mấy nay một số anh em “phê bình” mình chuyện không viết hoa tên riêng khi trả lời bình luận (bài vở trên trang chủ thì mình vẫn viết đúng theo quy định trình bày văn bản). Trên Facebook cá nhân, từ lâu mình cũng không viết hoa; khi chat với người quen hay người dần dần quen, mình cũng không không viết hoa. iPhone của mình mình cũng chỉnh không tự động viết hoa hay tự động sửa lỗi viết hoa. Và không phải ngẫu nhiên mà mình làm như vậy.
Vì tiếng Việt chúng ta sử dụng hệ an-pha-bê của châu Âu nên mình cứ nương theo mà trình bày. Thuở ban đầu, an-pha-bê được viết hoàn toàn theo kiểu chữ hoa (majuscule), nhưng khi viết bằng nhanh bằng bút, những ký tự này có xu hướng dần tròn và chuyển thành những dạng ký tự đơn giản hơn. Đây chính là lúc mà ký tự thường (minuscle) bắt đầu phát triển và phổ biến khắp châu Âu. Lợi điểm của cách viết này là dễ đọc hơn rất nhiều. Anh em cứ thử lấy một văn bản toàn chữ in hoa đọc thử xem nó mệt mỏi như thế nào chỉ sau vài phút đọc. Chữ in hoa và chữ in thường vẫn tồn tại chung với nhau nhưng sự khác nhau giữa hai biến thể này là chỉ là về phong cách (stylistic) hơn là chính tả (orthographic). Về truyền thống, một số ký tự sẽ được viết khác đi, tuân theo một bộ quy tắc và thường là ký tự đầu câu hoặc danh từ được viết lớn hơn và được “vẽ” theo một phong cách khác với các ký tự còn lại. Việc in ấn ra đời vào thế kỷ XV cũng góp phần phân hóa việc sử dụng in hoa hay in thường trong văn bản, do kỹ thuật in thời đó không linh hoạt như bây giờ. Không có một hệ thống viết hoa cố định nào cho đến đầu thế kỷ XVIII. Và các quy tắc viết hoa cũng thay đổi theo thời gian, theo hướng là ít viết hoa lại.
Cơ bản, chúng ta sử dụng viết hoa như là một tín hiệu cho người đọc, giúp cho việc tiêu thụ thông tin được dễ dàng hơn; hoặc tác giả muốn nhấn mạnh một điều gì đó. Còn nếu việc đọc không bị ảnh hưởng gì thì viết hoa hay không cũng chỉ là tuân theo một hệ thống mà mọi người đã quen thuộc và chấp nhận. Chúng ta đã có dấu câu để trình bày các ý tưởng của mình một cách mạch lạc và qua đó, ngữ pháp đóng một vai trò quan trọng hơn để thể hiện các ý tưởng. Khi nói, chúng ta không thể đặt dấu câu nhưng khi viết, dấu câu trở thành một công cụ rất cần thiết để truyền đạt ý nghĩa. Những ví dụ cười ra nước mắt và hậu quả đáng tiếc kèm theo nếu không sử dụng đúng dấu câu có rất nhiều. Khi dấu câu không được sử dụng đúng, người ta cần một phương tiện khác để giúp người đọc có thể dễ dàng nắm được ý hơn. Và đây là lúc những ký tự được “vẽ” đặc biệt có được vị trí khá quan trọng về mặt ngữ pháp. Dần dần, chúng phát triển và trở thành ký tự viết hoa như chúng ta đang thấy ngày nay. Những ký tự viết hoa hôm nay là kết quả của rất nhiều ký tự được phát triển qua nhiều thế kỷ, dựa vào nhau để có được hình thức trình bày như chúng ta đang thấy. Trong những giao tiếp không nặng tính hình thức (informal communication), chẳng hạn như nhắn tin hay ghi chú, việc viết hoa không phải là chuyện đáng bận tâm.
Đối với mình, hoặc viết tất cả bằng chữ thường hoặc chữ hoa giúp cho mình đánh máy nhanh hơn hay ghi nhanh hơn. Mình từng có người sếp ghi chú bằng chữ in hoa. Lúc đầu thấy rất lạ và khó hiểu nhưng tìm hiểu và hỏi han thì mới thấy một khi đã quen với một cách ghi, chúng ta viết nhanh hơn. Dĩ nhiên là đọc chữ in hoa toàn bộ rất khổ sở nên chữ in thường là lựa chọn của mình. Mọi thứ nhỏ nhắn hơn, xinh xắn hơn và dễ chịu hơn. Và việc viết hoa hay không không liên quan gì đến sự tôn trọng người hay sự vật được nhắc đến. Điều quan trọng là để dấu câu đúng, qua đó giúp trình bày suy nghĩ của mình rõ ràng. Suy nghĩ và ý tưởng rõ ràng mới chính là sự tôn trọng dành cho người đọc.
Viết hoa viết thường là một câu chuyện có lịch sử lâu đời và mỗi hệ thống ngôn ngữ đều có những quy tắc riêng để trình bày văn bản. Một số ngành khoa học chỉ sử dụng hoặc in hoa hoặc in thường khi trình bày. Dĩ nhiên, khi viết một email hay một bài viết cho nhiều người khác nhau, chúng ta (gồm cả mình) buộc phải theo các quy tắc trình bày chung để tránh gây hiểu nhầm.
Vì tiếng Việt chúng ta sử dụng hệ an-pha-bê của châu Âu nên mình cứ nương theo mà trình bày. Thuở ban đầu, an-pha-bê được viết hoàn toàn theo kiểu chữ hoa (majuscule), nhưng khi viết bằng nhanh bằng bút, những ký tự này có xu hướng dần tròn và chuyển thành những dạng ký tự đơn giản hơn. Đây chính là lúc mà ký tự thường (minuscle) bắt đầu phát triển và phổ biến khắp châu Âu. Lợi điểm của cách viết này là dễ đọc hơn rất nhiều. Anh em cứ thử lấy một văn bản toàn chữ in hoa đọc thử xem nó mệt mỏi như thế nào chỉ sau vài phút đọc. Chữ in hoa và chữ in thường vẫn tồn tại chung với nhau nhưng sự khác nhau giữa hai biến thể này là chỉ là về phong cách (stylistic) hơn là chính tả (orthographic). Về truyền thống, một số ký tự sẽ được viết khác đi, tuân theo một bộ quy tắc và thường là ký tự đầu câu hoặc danh từ được viết lớn hơn và được “vẽ” theo một phong cách khác với các ký tự còn lại. Việc in ấn ra đời vào thế kỷ XV cũng góp phần phân hóa việc sử dụng in hoa hay in thường trong văn bản, do kỹ thuật in thời đó không linh hoạt như bây giờ. Không có một hệ thống viết hoa cố định nào cho đến đầu thế kỷ XVIII. Và các quy tắc viết hoa cũng thay đổi theo thời gian, theo hướng là ít viết hoa lại.
Cơ bản, chúng ta sử dụng viết hoa như là một tín hiệu cho người đọc, giúp cho việc tiêu thụ thông tin được dễ dàng hơn; hoặc tác giả muốn nhấn mạnh một điều gì đó. Còn nếu việc đọc không bị ảnh hưởng gì thì viết hoa hay không cũng chỉ là tuân theo một hệ thống mà mọi người đã quen thuộc và chấp nhận. Chúng ta đã có dấu câu để trình bày các ý tưởng của mình một cách mạch lạc và qua đó, ngữ pháp đóng một vai trò quan trọng hơn để thể hiện các ý tưởng. Khi nói, chúng ta không thể đặt dấu câu nhưng khi viết, dấu câu trở thành một công cụ rất cần thiết để truyền đạt ý nghĩa. Những ví dụ cười ra nước mắt và hậu quả đáng tiếc kèm theo nếu không sử dụng đúng dấu câu có rất nhiều. Khi dấu câu không được sử dụng đúng, người ta cần một phương tiện khác để giúp người đọc có thể dễ dàng nắm được ý hơn. Và đây là lúc những ký tự được “vẽ” đặc biệt có được vị trí khá quan trọng về mặt ngữ pháp. Dần dần, chúng phát triển và trở thành ký tự viết hoa như chúng ta đang thấy ngày nay. Những ký tự viết hoa hôm nay là kết quả của rất nhiều ký tự được phát triển qua nhiều thế kỷ, dựa vào nhau để có được hình thức trình bày như chúng ta đang thấy. Trong những giao tiếp không nặng tính hình thức (informal communication), chẳng hạn như nhắn tin hay ghi chú, việc viết hoa không phải là chuyện đáng bận tâm.
Đối với mình, hoặc viết tất cả bằng chữ thường hoặc chữ hoa giúp cho mình đánh máy nhanh hơn hay ghi nhanh hơn. Mình từng có người sếp ghi chú bằng chữ in hoa. Lúc đầu thấy rất lạ và khó hiểu nhưng tìm hiểu và hỏi han thì mới thấy một khi đã quen với một cách ghi, chúng ta viết nhanh hơn. Dĩ nhiên là đọc chữ in hoa toàn bộ rất khổ sở nên chữ in thường là lựa chọn của mình. Mọi thứ nhỏ nhắn hơn, xinh xắn hơn và dễ chịu hơn. Và việc viết hoa hay không không liên quan gì đến sự tôn trọng người hay sự vật được nhắc đến. Điều quan trọng là để dấu câu đúng, qua đó giúp trình bày suy nghĩ của mình rõ ràng. Suy nghĩ và ý tưởng rõ ràng mới chính là sự tôn trọng dành cho người đọc.
Viết hoa viết thường là một câu chuyện có lịch sử lâu đời và mỗi hệ thống ngôn ngữ đều có những quy tắc riêng để trình bày văn bản. Một số ngành khoa học chỉ sử dụng hoặc in hoa hoặc in thường khi trình bày. Dĩ nhiên, khi viết một email hay một bài viết cho nhiều người khác nhau, chúng ta (gồm cả mình) buộc phải theo các quy tắc trình bày chung để tránh gây hiểu nhầm.