Ông Thái, ở làng rèn Hồng Lư, phường Hòa Hương, TP Tam Kỳ, thường thức dậy sớm, ăn sáng rồi bắt đầu ngày làm việc bên bếp than đỏ rực ở lò rèn. Đôi tay chai sạn thoăn thoắt bỏ những đoạn thép đã được máy cắt sẵn, dài 30 cm, rộng khoảng 5 cm vào lò. Để trong nhiệt độ cao khoảng 10 phút, ông cầm kìm đảo qua lại, để chúng đỏ đều.
Thép "chín", ông lau vội những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt, rồi gắp chúng ra ngoài. Một tay cầm kìm giữ chặt trên đe, tay kia ông dùng búa đập. Cứ như vậy, sau vài phút, miếng thép đã thành hình lưỡi cuốc dài tầm 15 cm, rộng hơn 5 cm. Lưỡi cuốc tiếp tục được nung qua lửa và rèn nhiều lần trước khi đưa vào máy mài giũa cho sắc bén để bán ra thị trường.
Sinh ra trong gia đình làm nghề rèn thủ công nên 15 tuổi ông Thái đã được cha truyền dạy. Lớn lên, ông tiếp quản và giữ lửa lò rèn đến hôm nay. Lúc mới vào nghề, ông chỉ được đốt lò, quạt lửa, sau vài năm quen việc và có kinh nghiệm mới được giao rèn.
Người làm công việc này đòi hỏi có sức khỏe và độ bền, vì công việc nặng nhọc, phải bắt đầu từ sáng sớm. Để làm ra một sản phẩm, người thợ phải thực hiện rất nhiều công đoạn, từ cắt sắt thép tạo hình, nung, đập, nhúng nước, rồi lại nung, đập cho tới khi định hình được sản phẩm, mài cho sắc...
"Nghề rèn trong làng cơ bản có công đoạn giống nhau, nhưng mỗi gia đình lại có bí quyết riêng để sản phẩm làm ra tốt, bền", ông nói, cho biết hơn 50 năm gắn bó với nghề rèn giúp ông quen với sức nóng phừng phực từ lò lửa và tiếng ồn của đập đe, búa, tiếng mài, khói bụi.
Chừng ấy năm kinh nghiệm cũng giúp ông chỉ nhìn qua độ hồng của sắt thép nung trên ngọn lửa là biết thép đã "chín" hay chưa, vì chỉ cần "non", hay "già" một chút là sản phẩm sẽ không tốt. Các loại thép có độ hồng khác nhau, người thợ phải có con mắt tinh tường, có "năng khiếu nghề nghiệp".
Làng rèn Hồng Lư có lịch sử hàng trăm năm, với các sản phẩm dao, rựa, đồ nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trước Cách mạng tháng 8/1945, người dân tham gia sản xuất các loại vũ khí như chông, mác, giáo, cung tên, dao, rựa... phục vụ kháng chiến và được Hội đồng Chính phủ lúc bấy giờ tặng bằng khen vì góp phần vào thắng lợi của cách mạng.
Từ đó, danh tiếng của làng rèn Hồng Lư vang đi khắp nơi. Hàng hóa làm ra không chỉ bán tại địa phương còn xuất đi các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và Lào. Hơn 10 năm trước, làng Hồng Lư từng có 36 lò rèn. Song khi các vật dụng dao rựa, đồ nông cụ từ nước ngoài và miền Bắc tràn đến, làng rèn hoạt động cầm chừng vì giá cao, sản phẩm không tiêu thụ được. Nhiều lò trong làng phải "tắt lửa" hoặc chuyển đổi nghề.
Riêng ông Thái đã đến nhiều tỉnh miền Trung, miền Bắc tìm hiểu cách làm sản phẩm tốt mà giá thành rẻ. Những chuyến đi thực tế giúp ông nhận ra "phải thay đổi cách sản xuất để bắt kịp thời cuộc". Ông đầu tư máy móc và áp dụng công nghệ sản xuất để giảm công lao động, tăng số lượng sản phẩm. Từ đó, giá thành sản phẩm đã giảm xuống.
Mỗi lúc đỏ lửa, ông Thái tranh thủ sản xuất hàng loạt, tiết kiệm nguồn than đốt nhằm giảm chi phí sản xuất. Ông còn vay vốn, làm nhiều sản phẩm cất giữ trong kho, để khi vào mùa vụ, nông dân tiêu thụ mạnh thì có sẵn hàng bán. Vợ ông cũng mở gian hàng ở chợ Tam Kỳ để tiêu thụ sản phẩm, xuất hàng đi nhiều nơi.
"Trong hoàn cảnh mới, lò rèn của tôi vẫn tồn tại. Hàng hóa sản xuất ra theo lối truyền thống nên nhiều người ưa thích vì độ bền, sắc bén. Chừng nào nghề nông còn tồn tại thì chừng đó vẫn sẽ cần đến sản phẩm của làng Hồng Lư", ông quả quyết nói.
Mỗi ngày đỏ lửa, ông Thái thu nhập khoảng 500.000 đồng; thợ phụ 300.000 đồng. Mức thu nhập này theo ông không cao nhưng vẫn sống được với nghề, giúp ông nuôi ba con học đại học. Dù các con không theo nghề, ông vẫn vui vì hai người em trai vẫn cùng ông giữ nghề cha ông truyền lại.